Dự Báo Tình Hình Tội Phạm Năm 2023

Dự Báo Tình Hình Tội Phạm Năm 2023

Năm 2022 là một năm đầy biến động trên khắp thế giới và Nhật Bản cũng là một trong quốc gia có nhiều biến động. Vậy sắp tới trong năm 2023 Nhật Bản sẽ như thế nào. Có nên du học Nhật Bản thời điểm này? Hãy cùng DEOW tham khảo bài viết này nhé.

Năm 2022 là một năm đầy biến động trên khắp thế giới và Nhật Bản cũng là một trong quốc gia có nhiều biến động. Vậy sắp tới trong năm 2023 Nhật Bản sẽ như thế nào. Có nên du học Nhật Bản thời điểm này? Hãy cùng DEOW tham khảo bài viết này nhé.

Đồng Yên giảm thực sự có ảnh hưởng đến Du Học Sinh?

Tuy nhiên, nếu thật sự để ý, chúng ta có thể thấy việc than phiền việc rớt giá đến chủ yếu từ nhóm xuất khẩu lao động Nhật Bản. Lý do chính của việc này là thời điểm họ đăng khi xuất khẩu lao động là trước năm 2020, lúc này tỷ giá Yên đang ở đỉnh thời kỳ hoàng kim, vì người lao động đã “đầu tư” mua đơn hàng với mức giá cao nên họ cũng mong đợi mức thu nhập tương xứng.

Tuy nhiên tất cả thay đổi sau dịch Covid, suy thoái kinh tế đã làm cho đồng Yên rớt giá kỷ lục, việc giá đầu tư cao chót vót nhưng lợi nhuận thu lại ở mức đáy đã làm người lao động chán nản. Nhiều trường hợp đã vay ngân hàng với mức lãi cao, việc này dẫn đến hệ lụy không chỉ không có lời mà còn có nguy cơ tiền gửi về cho gia đình không đủ để trả nợ. Điều đó không đáng để họ đánh đổi 3 năm xa nhà, xa gia đình.

Đồng Yên giảm không thực sự tác động xấu đến du học sinh

Những giá trị nguyên vẹn của Nhật Bản

Chất lượng giáo dục đào tạo Nhật Bản luôn đứng ở những top đầu. Không chỉ thế, chất lượng sản phẩm hay dịch vụ của Nhật cho đến giờ vẫn luôn được đánh giá xuất sắc. Bạn hoàn toàn có thể yên tâm khi học tập và làm việc tại quốc gia này.

Nếu như tại 1 số nước, chi phí giáo dục của người nước ngoài thường cao hơn so với người dân nước đó. Thì ở Nhật Bản mức học phí không có sự chênh lệch giữa người Nhật và người nước ngoài. Mọi thứ đều bình đẳng.

Điều này cũng cho thấy văn hóa của người Nhật trong việc tiếp đãi người nước ngoài và coi trọng giáo dục của họ

Trong dịch Covid, chính phủ Nhật Bản luôn có các hỗ trợ hiệu quả, kịp thời như:

Xuất khẩu lao động có còn Hot?

So với chi phí “mua” đơn hàng xuất khẩu lao động trên dưới 100 triệu đồng. Bạn có thể lựa chọn đầu tư cho việc học tập tại Nhật. Chi phí du học Nhật Bản hiện tại cũng chỉ ở mức từ 120 triệu/năm cho học phí. Ngoài ra, du học sinh được phép làm thêm 4h/ngày để chi trả cho sinh hoạt phí.

Nếu như bạn muốn tìm khóa học có thời gian ngắn thì có thể chọn Khóa du học 1 năm chuyển đổi Visa Kỹ năng đặc định để đi làm. Không chỉ cao cấp hơn Visa xuất khẩu lao động, việc có kiến thức, ngôn ngữ giúp bạn chủ động hơn trong công việc và tự do chuyển đổi nơi làm việc, không bị phụ thuộc vào cơ quan quản lý như nghiệp đoàn. Với mức lương cao hơn, người lao động còn có thể ở lại Nhật dài hơn, lên tới 5-10 năm so với hạn 3 năm của Xuất khẩu lao động.

Không phải bất lợi, mà là cơ hội

Ngược lại, với du học sinh thì đây là một cơ hội lớn. So với mức đồng Yên ở tỷ giá khoảng 210 VND/JPY. Học phí ở Nhật dao động khoảng 168 triệu đồng (đối với trường có mức học phí 800,000 Yên/năm). Thì giờ đây tiền học phí chỉ vọn vẻn khoảng 140 triệu/năm. Tiết kiệm gần 30 triệu.

Ngoài học phí, phí sinh hoạt cũng là một lợi thế, số tiền ba mẹ gửi từ Việt Nam sang cũng đổi được nhiều tiền Nhật hơn, cuộc sống của du học sinh cũng có phần thoải mái hơn. Không phải lo đi làm thêm nhiều mà có thể tập trung vào việc học.

Hiện nay chi phí du học Nhật Bản năm đầu chỉ ở mức từ 160 triệu (bao gồm 1 năm học phí, 3 tháng ký túc xá, vé máy bay, phí dịch vụ). Ngoài ra DEOW cũng có nhiều trường có chế độ miễn giảm ưu đãi học bổng cho du học sinh Việt Nam. Bằng cách này các bạn có thể tiết kiệm được rất nhiều chi phí so với trước kia.

Hãy có cái nhìn khách quan khi phân tích 1 tình hình chứ đừng vội nghe theo số đông.

Xem thêm: Cách tiết kiệm chi phí du học

Các sự kiện nổi bật trong năm 2023

Hiện tại đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam vẫn không ngừng tăng mạnh. Năm nay là năm kỷ niệm 50 năm thiết lập Quan Hệ Ngoại Giao Việt – Nhật. Ngoài các sự kiện giao lưu kỷ niệm, dự kiến sẽ có nhiều chương trình ưu đãi riêng dành cho công dân Việt Nam.

Hãy đón chờ các cập nhật tin tức từ DEOW trong tương lai nhé

DỰ BÁO KINH TẾ TOÀN CẦU NĂM 2023 Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng nhẹ so với các dự báo trước đó Các tổ chức quốc tế điều chỉnh tăng nhẹ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 so với dự báo đưa ra vào đầu năm. Cụ thể, Liên minh châu Âu dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,2%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2023; OECD nhận định kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng trưởng 3%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023; IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 3%, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023; Fitch Ratings dự báo nền kinh tế thế giới năm 2023 tăng trưởng 2,5% (mức thấp nhất trong dự báo của các tổ chức), cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định tăng trưởng toàn cầu sẽ chậm lại ở mức 2,1% trong năm 2023, điều chỉnh tăng 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm 2023. Biến động thị trường thế giới Thương mại hàng hóa toàn cầu tiếp tục giảm trong năm 2023 Theo WTO, hầu hết các chỉ số thành phần của thước đo thương mại hàng hóa toàn cầu đều thấp hơn so với xu hướng, cụ thể: Chỉ số đơn hàng xuất khẩu (97,6), chỉ số vận chuyển container (99,5), chỉ số vận tải hàng không (97,5), chỉ số tư liệu sản xuất (99,2), chỉ số linh kiện điện tử giảm sâu xuống dưới xu hướng (91,5). Riêng chỉ số sản phẩm ô tô tăng vững, trên xu hướng (110,8). WB nhận định thương mại hàng hóa toàn cầu tiếp tục giảm trong Quý II/2023 khi chỉ số PMI về số lượng đơn hàng xuất khẩu mới của ngành chế biến, chế tạo dưới mức xu hướng, chỉ đạt 47,1 điểm trong tháng 6/2023. Ngược lại, thương mại dịch vụ mở rộng trong tháng 6/2023 mặc dù tốc độ đã chậm hơn so với tháng trước. Theo IMF, tăng trưởng thương mại thế giới dự kiến sẽ giảm từ 5,2% năm 2022 xuống 2,0% năm 2023, phản ánh nhu cầu toàn cầu giảm, gia tăng cơ cấu dịch vụ trong nước, tác động trễ của tăng giá đồng đô la Mỹ và gia tăng các rào cản thương mại toàn cầu. Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm trong năm 2023 Theo WB, hầu hết giá hàng hóa đều giảm trong tháng 6/2023. Tuy nhiên, giá dầu tăng trong tháng 7/2023, lên 80 USD/thùng trong bối cảnh lo ngại về nguồn cung toàn cầu thắt chặt hơn, sau khi Ả Rập Xê-út tuyên bố gia hạn cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng mỗi ngày cho đến tháng 8/2023. Cơ quan Năng lượng quốc tế dự báo nguồn cung toàn cầu sẽ vẫn thiếu hụt trong năm 2023 và một số quốc gia đang nỗ lực bổ sung cho nguồn dự trữ đang ở mức thấp. Theo EU, trong Quý III/2023, giá khí đốt và điện lần lượt giảm 21% và 25% so với mức dự báo trong tháng 5/2023 do sự mở rộng nhanh chóng cơ sở hạ tầng khí đốt tự nhiên hóa lỏng và đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc (FFPI) đạt 121,4 điểm trong tháng 8/2023, giảm 2,6 điểm (2,1%) so với tháng 7/2023, chủ yếu do chỉ số giá các sản phẩm sữa, dầu thực vật, thịt và ngũ cốc giảm, trong khi chỉ số giá đường tăng vừa phải. Giá kim loại nhìn chung vẫn không thay đổi kể từ tháng 5/2023 do nền kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm hơn dự kiến. Trong thời gian tới, giá kim loại dự báo sẽ vẫn bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của ngành xây dựng và sản xuất ở Trung Quốc, thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế phát triển và những hạn chế về phía cung đối với các kim loại quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch. Theo IMF, lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ giảm từ mức 8,7% trong năm 2022 xuống còn 6,8% năm 2023 khi lạm phát trung bình ở phần lớn các nền kinh tế trên thế giới dự kiến giảm trong năm 2023. Nguyên nhân chính dẫn đến giảm lạm phát là giá hàng hóa quốc tế giảm cũng như thắt chặt chính sách tiền tệ ở các quốc gia. Điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng nới lỏng trong bối cảnh tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ IMF nhận định căng thẳng gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng đã giảm bớt, nhưng nguồn tín dụng vẫn còn hạn chế. Các điều kiện tài chính toàn cầu đã nới lỏng, lo ngại về những rủi ro đối với sự ổn định tài chính đến từ ngành ngân hàng đã giảm. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tạo áp lực cho một số ngân hàng, cả trực tiếp và gián tiếp. Các ngân hàng ở Hoa Kỳ và châu Âu có xu hướng hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng trong những tháng tới khi giảm dần các khoản vay đối với doanh nghiệp và bất động sản thương mại. Thị trường lao động nhìn chung vẫn thắt chặt OECD nhận định thị trường lao động toàn cầu nhìn chung vẫn thắt chặt, với tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và tỷ lệ việc làm trống vẫn cao ở hầu hết các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, số lượng vị trí tuyển dụng gần đây đã giảm khi tốc độ tăng trưởng việc làm đã chậm lại và tỷ lệ bỏ việc giảm. Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới Một là, lạm phát vẫn tiếp diễn. Mặc dù lạm phát chung bắt đầu giảm ở hầu hết các quốc gia, chủ yếu do giá năng lượng giảm, lạm phát cơ bản vẫn cao hơn mức mục tiêu của các ngân hàng trung ương. Hai là, định giá lại thị trường tài chính. Tuy thị trường tài chính đã được điều chỉnh theo những kỳ vọng về gia tăng thắt chặt chính sách tiền tệ từ tháng 4/2023, nhưng khi các nhà hoạch định chính sách hành động mạnh hơn dự kiến có thể dẫn tới tăng cao lãi suất kỳ vọng và giá tài sản giảm. Việc tăng lãi suất cùng với hoạt động kinh tế chậm lại ở các nền kinh tế phát triển có thể dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, làm giảm giá trị tài sản dài hạn. Ba là, tăng trưởng dài hạn toàn cầu yếu hơn dự kiến. Tăng trưởng tiềm năng toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong ba thập kỷ, đạt 2,2% trong thời gian còn lại của thập niên 2020. Số liệu này thấp hơn 0,4 điểm phần trăm so với mức trung bình 2,6% của giai đoạn 2011-2021 và nối tiếp xu hướng giảm kéo dài trong giai đoạn trước. Bốn là, quá trình phục hồi của Trung Quốc kém hiệu quả. Rủi ro xung quanh dự báo tăng trưởng của Trung Quốc có thể dẫn đến tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của các đối tác thương mại trong và ngoài khu vực. Năm là, sự phân mảnh địa kinh tế ngày càng sâu sắc. Nguy cơ nền kinh tế thế giới sẽ bị chia cắt thành các khối trong bối cảnh xung đột Nga - U-crai-na và các căng thẳng địa chính trị khác đang gia tăng, với nhiều hạn chế hơn về thương mại, dịch chuyển vốn xuyên biên giới, công nghệ, lao động và thanh toán quốc tế. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ Hoa Kỳ Các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh tăng đối với dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ. Cụ thể: OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của quốc gia này đạt 2,2%, điều chỉnh tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 6/2023. FR dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2023 đạt 2,0%, điều chỉnh tăng 0,8 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. IMF dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 1,8% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Tăng trưởng tiêu dùng bền vững trong Quý I/2023, thị trường lao động thắt chặt hỗ trợ tăng thu nhập thực tế và thị trường xe hơi tăng trở lại là nguyên nhân khiến IMF điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP năm 2023. ADB nhận định tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2023 dự báo đạt 1,9%, điều chỉnh tăng 1 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4/2023. Trading Economics dự báo tăng trưởng GDP Quý III/2023 của Hoa Kỳ tăng 5,9% so với quý trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2022. Khu vực đồng Euro Đối với khu vực này, hai tổ chức điều chỉnh giảm tăng trưởng (OECD và FR), hai tổ chức điều chỉnh tăng tăng trưởng (IMF và ADB). Nếu so với tăng trưởng năm 2022, dù điều chỉnh tăng, hay điều chỉnh giảm, tăng trưởng năm 2023 của khu vực đồng Euro đều thấp hơn nhiều so với năm 2022. Cụ thể, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro năm 2023 đạt 0,6%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023 do hoạt động kinh tế suy yếu ở khu vực đồng Euro, phản ánh tác động trễ đối với thu nhập từ cú sốc lớn về giá năng lượng năm 2022 và mức độ phụ thuộc tài chính tương đối lớn vào ngân hàng ở nhiều nền kinh tế châu Âu.  FR dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro năm 2023 đạt 0,6%, điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. IMF nhận định tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro đạt 0,9% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 4/2023. ADB đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2023 lên mức 0,7%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của khu vực đồng Euro dự báo tăng 0,4% so với Quý II/2023 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.  Nhật Bản Các tổ chức OECD, ADB, FR, IMF đều điều chỉnh tăng tăng trưởng của quốc gia này. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản đạt 1,8% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. FR điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản tăng 0,7 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023, đạt 2,0% năm 2023. IMF nhận định kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,4% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Hoạt động kinh tế mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2023 là căn cứ để ADB dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản năm 2023 đạt 1,7%, điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Những điều chỉnh của bốn tổ chức OECD, ADB, FR và IMF cho thấy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2023 cao hơn năm 2022 (1%). Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,9% so với quý trước và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,9% so với quý trước và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Trung Quốc Chỉ có IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2023 so với dự báo tháng 4/2023, ba tổ chức còn lại đều điều chỉnh giảm tăng trưởng năm 2023 của quốc gia này là ADB, OECD và FR với mức điều chỉnh giảm tương ứng là 0,1, 0,3 và 0,8 điểm phần trăm. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP Trung Quốc năm 2023 đạt 5,1%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. FR nhận định tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 4,8% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,8 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. ADB dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đạt 4,9% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023 do hoạt động kinh tế của quốc gia này dự kiến sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2023, phản ánh đà suy yếu của nhu cầu trong nước, những trở ngại từ nhu cầu toàn cầu yếu hơn và điều chỉnh của lĩnh vực bất động sản.        Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Trung Quốc tăng 0,5% so với Quý II/2023 và tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2022. Đông Nam Á Tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á được hai tổ chức ADB và OECD điều chỉnh giảm. Theo đó, báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 9/2023 của ADB nhận định tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á năm 2023 đạt 4,6%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023; Báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ 2023, cập nhật tháng 9/2023 của OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á đạt 4,2%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. Trong báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 9/2023, ADB nhận định tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á năm 2023 đạt 4,6%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng toàn cầu chậm lại, giá hàng hóa cao, cùng với sản lượng nông nghiệp thấp hơn do thời tiết bất lợi. ADB điều chỉnh giảm tăng trưởng năm 2023 của một số quốc gia Đông Nam Á so với dự báo trong tháng 4/2023 như sau: Xin-ga-po được điều chỉnh giảm 1 điểm phần trăm, đạt 1%; Lào và Phi-li-pin được điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm, lần lượt đạt 3,7% và 5,7%; Cam-pu-chia, và Ma-lai-xi-a được điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm, đạt các mức tăng trưởng tương ứng là 5,3% và 4,5%. Dự báo tăng trưởng năm 2023 của Mi-an-ma được giữ nguyên ở mức 2,8%. Trong khi đó, dự báo tăng trưởng năm 2023 của 3 quốc gia được điều chỉnh tăng so với dự báo trong tháng 4/2023: tăng 0,2 điểm phần trăm đối với In-đô-nê-xi-a và Thái Lan, lần lượt đạt 5,0% và 3,5%; tăng 0,3 điểm phần trăm đối với Bru-nây, đạt 2,8%. Theo báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ 2023, cập nhật tháng 9/2023, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á đạt 4,2%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý III/2023 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a sẽ đạt 5,1%; Ma-lai-xi-a 3,9%; Phi-li-pin 6,0%; Thái Lan 2,4%, Xin-ga-po 1,8%. Tăng trưởng Quý III/2023 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là 1,5%; 1,1%; 1,0%; 0,9% và 0,8%. Việt Nam Đối với Việt Nam, các tổ chức quốc tế đều giảm dự báo tăng trưởng so với các báo cáo trước đây. ADB dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam đạt 5,8%, điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023. OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Việt Nam đạt 4,9%, điều chỉnh giảm 1,5 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. WB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,7% năm 2023, điều chỉnh giảm 1,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6/2023. Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý III/2023 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 3,0%.

Nguồn: Vụ Thống kê Nước ngoài và Hợp tác quốc tế - TCTK

Tại thời điểm tháng 12/2022, hầu hết các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 so với các dự báo đưa ra trước đó. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức 3,2% trong năm 2022 so với thời điểm tháng 7/2022, nhưng giảm 0,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng năm 2023, đạt mức 2,7%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 đạt 3,1%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022 và sẽ chậm lại ở mức 2,2% vào năm 2023. Fitch Ratings (FR) điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 so với dự báo trong tháng 9/2022, đạt 2,6% trước khi giảm xuống còn 1,4% trong năm 2023.

Báo cáo bổ sung Triển vọng phát triển kinh tế tháng 12/2022 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng kinh tế của một số nền kinh tế lớn so với dự báo đưa ra trong tháng 9/2022. Cụ thể, dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ tăng 0,1 điểm phần trăm, đạt 1,7% trong năm 2022; khu vực đồng Euro tăng 0,5 điểm phần trăm lên mức 3%; giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Nhật Bản ở mức 1,4%; Trung Quốc giảm 0,3 điểm phần trăm xuống còn 3%.

Trong khu vực Đông Nam Á, ADB nhận định tăng trưởng năm 2022 của Phi-li-pin đạt 7,4% (tăng 0,9 điểm phần trăm); Ma-lai-xi-a đạt 7,3% (tăng 1,3 điểm phần trăm); In-đô-nê-xi-a đạt 5,4% (giữ nguyên so với dự báo trong tháng 7/2022); Xin-ga-po đạt 3,3% (giảm 0,4 điểm phần trăm); Thái Lan đạt 3,2% (tăng 0,3 điểm phần trăm).

IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 của Việt Nam đạt 7% và giảm xuống 6,2% trong năm 2023. Ngân hàng thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 của Việt Nam đạt 7,2%, tăng 1,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2022 và giảm xuống còn 6,7% trong năm 2023. ADB điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam thêm 1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022, đạt 7,5% và giảm xuống còn 6,3% trong năm 2023.

I. XU HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN CẦU

1. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 và 2023

Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 10/2022 của IMF nhận định thế giới đang trong thời kỳ nhiều biến động, những thay đổi về kinh tế, địa chính trị và sinh thái đều tác động đến triển vọng toàn cầu. Lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ, khiến hộ gia đình siết chặt chi tiêu trong bối cảnh hỗ trợ tài chính liên quan đến đại dịch Covid-19 đang giảm dần. Nhiều quốc gia có thu nhập thấp đang phải đối mặt với những khó khăn tài chính. Đồng thời, xung đột giữa Nga và U-crai-na làm gia tăng đáng kể khả năng xảy ra gián đoạn địa chính trị toàn cầu. Mặc dù tác động của đại dịch đã giảm ở hầu hết các quốc gia, nhưng những làn sóng kéo dài của nó vẫn tiếp tục làm gián đoạn hoạt động kinh tế, đặc biệt là ở Trung Quốc. Theo IMF, dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 đạt 3,2% (giữ nguyên so với dự báo trong tháng 7/2022), thấp hơn 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 4 năm 2022 và đạt 2,7% năm 2023.

Các dự báo của IMF cho năm 2023 của 143 nền kinh tế (chiếm 92% GDP thế giới) yếu hơn dự kiến. Ba nền kinh tế lớn nhất thế giới, gồm Trung Quốc, khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ, sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể vào năm 2023, phản ánh các nguy cơ rủi ro trở thành hiện thực: thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu ở hầu hết các khu vực, kỳ vọng tăng lãi suất mạnh hơn của các ngân hàng trung ương lớn để chống lạm phát; giảm tăng trưởng rõ rệt hơn ở Trung Quốc do thời gian phong tỏa kéo dài và khủng hoảng thị trường bất động sản ngày càng trầm trọng; tác động lan tỏa từ cuộc xung đột tại U-crai-na với nguồn cung khí đốt từ Nga sang châu Âu bị thắt chặt.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 12/2022, FR điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 từ mức 2,4% (tại thời điểm tháng 9/2022) lên 2,6% do tăng trưởng kinh tế thế giới trong Quý III/2022 cao hơn dự kiến. FR đã điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng năm 2022 cho Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, nhưng hạ dự báo tăng trưởng của Nhật Bản. Tuy nhiên, FR điều chỉnh giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023, đạt 1,4%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với mức dự báo 1,7% đưa ra trong tháng 9/2022, khi các ngân hàng trung ương buộc phải mạnh tay hơn trong cuộc chiến chống lạm phát và triển vọng thị trường bất động sản của Trung Quốc xấu đi.

Trong Báo cáo Triển vọng kinh tế tháng 11/2022, OECD nhận định nền kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn. Tăng trưởng đã mất đà, lạm phát cao diễn ra dai dẳng, niềm tin suy yếu và tính bất ổn cao. Xung đột tại U-crai-na đã đẩy giá cả lên cao, đặc biệt giá năng lượng, làm gia tăng áp lực lạm phát vào thời điểm chi phí sinh hoạt đã tăng nhanh trên toàn thế giới. Các điều kiện tài chính toàn cầu bị thắt chặt đáng kể trong bối cảnh tăng lãi suất chính sách của các ngân hàng trung ương, đã ảnh hưởng tới chi tiêu và tăng thêm áp lực cho nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi. Theo OECD, tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 3,1% năm 2022, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 9/2022 và sẽ chậm lại ở mức 2,2% vào năm 2023. Triển vọng toàn cầu cũng ngày càng nghiêng về các nền kinh tế thị trường lớn mới nổi của châu Á chiếm gần 3/4 tăng trưởng GDP toàn cầu vào năm 2023, phản ánh sự suy giảm triển vọng kinh tế của Hoa Kỳ và châu Âu.

Hình 1. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 và 2023 của các tổ chức quốc tế

Nguồn: IMF, Fitch Ratings, OECD và EU

Theo Báo cáo Dự báo kinh tế châu Âu tháng 11/2022, sau khi phục hồi mạnh mẽ vào năm 2021, hoạt động kinh tế toàn cầu nhìn chung bị đình trệ trong nửa đầu năm 2022. Tăng trưởng GDP toàn cầu mạnh hơn trong Quý III/2022 nhờ sự phục hồi ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên, các chỉ số tần suất cao như sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ, PMI cho thấy sự yếu kém trong hoạt động kinh tế toàn cầu trong tương lai. Hầu hết các nền kinh tế phát triển và thị trường mới nổi chịu cú sốc thương mại lớn do khủng hoảng năng lượng, trong khi các điều kiện tiền tệ toàn cầu đang thắt chặt và đồng đô la Mỹ tăng giá mạnh. EU dự báo tăng trưởng GDP thế giới đạt 3,2% năm 2022 và 2,5% năm 2023.

2. Tổng quan biến động thị trường thế giới

Thương mại hàng hóa toàn cầu suy giảm trong nửa cuối năm 2022

Thước đo thương mại hàng hóa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)[1] cho thấy tăng trưởng thương mại có thể sẽ chậm lại trong những tháng cuối năm 2022 và sang năm 2023. Chỉ số hiện tại là 96,2, thấp hơn giá trị cơ sở (100), phản ánh nhu cầu đối với hàng hóa giao dịch đang hạ nhiệt. Chỉ số thành phần trong Thước đo thương mại hàng hóa đại diện cho đơn hàng xuất khẩu (91,7), vận tải hàng không (93,3) và linh kiện điện tử (91,0) cho thấy sự suy giảm. Theo đó, niềm tin kinh doanh đang giảm dần và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu yếu hơn dẫn tới các chỉ số vận chuyển công-ten-nơ (99,3) và nguyên liệu thô (97,6) thấp hơn mức cơ sở. Tuy nhiên, chỉ số sản phẩm ô tô tăng (103,8) do doanh số bán xe mạnh hơn ở Hoa Kỳ và tăng xuất khẩu từ Nhật Bản khi nguồn cung được cải thiện và đồng Yên tiếp tục giảm giá. Theo WTO, thương mại thế giới đã giảm tốc trong nửa cuối năm 2022 và sẽ giảm tốc hơn nữa trong năm 2023 trước một số cú sốc như xung đột ở U-crai-na, giá năng lượng cao, lạm phát và thắt chặt tiền tệ tại các nền kinh tế lớn.

WB[2] cũng đồng quan điểm khi cho rằng thương mại toàn cầu suy thoái trên diện rộng. Sau khi thương mại hàng hóa và dịch vụ toàn cầu tăng trong Quý II/2022, tăng trưởng thương mại toàn cầu chậm lại trong nửa cuối năm 2022. Chỉ số đơn đặt hàng xuất khẩu mới PMI cho thương mại dịch vụ và chế biến chế tạo giảm sâu hơn trong tháng 10. Dữ liệu ngắn hạn cũng chỉ ra sự điều tiết trong hoạt động đi lại vì các ngành liên quan phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động trong khi chi tiêu cho du lịch giảm do giá năng lượng cao, lạm phát và điều kiện tài chính thắt chặt hơn.

Giá hàng hóa có xu hướng giảm, lạm phát đạt đỉnh

WB nhận định hầu hết giá hàng hóa trong tháng 10/2022 đều giảm, giá năng lượng giảm 8% so với tháng trước, đứng đầu là giá khí đốt tự nhiên. Cụ thể, giá khí đốt tự nhiên tại châu Âu trong tháng 10/2022 giảm 33% do lưu kho gần đạt công suất tối đa và nhu cầu thấp hơn do thời tiết ấm hơn bình thường và mức tiêu thụ hộ gia đình và công nghiệp giảm. Giá than giảm 10% so với tháng trước khi sản lượng tăng ở một số quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ.

Ngược lại, giá dầu thô Brent dao động từ 93 USD/thùng đến 98 USD/thùng trong nửa đầu tháng 11/2022. Triển vọng đối với giá dầu không chắc chắn, một phần xuất phát từ kế hoạch G7 hạn chế giá trần dầu của Nga, lệnh cấm nhập khẩu dầu thô của Nga vào EU có hiệu lực vào ngày 05/12/2022 và quyết định của OPEC giảm hạn ngạch sản xuất xuống mức tối đa 2 triệu thùng mỗi ngày.

Cũng trong tháng 10, giá kim loại giảm khoảng 2% so với tháng trước, dẫn đầu là thiếc (-8%) và kẽm (-5%).

Chỉ số giá lương thực, thực phẩm (FFPI) của Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc[3] tháng 11/2022 hầu như không thay đổi so với tháng 10/2022. FFPI đạt trung bình 135,7 điểm trong tháng 11/2022 với chỉ số giá ngũ cốc, sữa và thịt giảm so với tháng trước, gần như bù đắp cho mức tăng của dầu thực vật và đường. Giá lúa mì thế giới ghi nhận mức giảm 2,8% trong tháng 11, chủ yếu do Nga gia hạn thỏa thuận Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen, làm giảm nhu cầu nhập khẩu đối với nguồn cung từ Hoa Kỳ. Giá ngô giảm 1,7% so với tháng 10/2022. Giá gạo quốc tế tăng thêm 2,3% trong tháng 11, phần lớn do tăng giá tiền tệ so với đồng đô la Mỹ của một số nhà cung cấp châu Á và sức mua tốt.

IMF nhận định lạm phát toàn cầu đạt đỉnh trong năm 2022. Dự báo lạm phát chung toàn cầu tăng từ 4,7% năm 2021 lên 8,8% năm 2022 và giảm xuống 6,5% năm 2023. Lạm phát dự kiến giảm vào năm 2023 ở hầu hết các nền kinh tế nhưng rõ rệt nhất ở các nền kinh tế phát triển. Đối với các nền kinh tế phát triển lạm phát dự kiến sẽ tăng từ 3,1% năm 2021 lên 7,2% năm 2022 trước khi giảm xuống 4,4% vào năm 2023. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, lạm phát dự kiến sẽ tăng từ 5,9% năm 2021 lên 9,9% năm 2022, trước khi giảm xuống 8,1% vào năm 2023.

Điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng ổn định

Theo WB, điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng ổn định. Lợi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ kỳ hạn 2 năm và 10 năm tăng vào đầu tháng 11/2022 do lãi suất chính sách của Hoa Kỳ tăng thêm 0,75 điểm phần trăm, nhưng sau đó giảm do lạm phát yếu hơn dự kiến. Giá cổ phiếu toàn cầu đồng loạt tăng, đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 9/2022. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và các thị trường mới nổi, điều kiện tài chính phần nào ổn định từ cuối tháng 10/2022 đến giữa tháng 11/2022. Đồng đô la Mỹ yếu đi, trong khi chênh lệch lãi suất đi vay trong các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi và phí bảo hiểm hoán đổi rủi ro tín dụng cũng giảm. Việc nới lỏng các hạn chế liên quan đến Covid-19 khiến chứng khoán Trung Quốc đã tăng mạnh trong tháng 11/2022.

Theo IMF, để ngăn lạm phát tăng cao, các ngân hàng trung ương đã nhanh chóng nâng lãi suất chính sách danh nghĩa. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tăng lãi suất mục tiêu thêm 3 điểm phần trăm kể từ đầu năm 2022 và đã thông báo về khả năng sẽ tăng thêm. Ngân hàng Trung ương Anh tăng lãi suất chính sách thêm 2 điểm phần trăm kể từ đầu năm 2022. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã tăng lãi suất chính sách thêm 1,25 điểm phần trăm trong năm 2022.

Hoa Kỳ ghi nhận mức tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước này lớn nhất so với tất cả các nền kinh tế trong năm 2021, tăng thêm 506 tỷ USD, tương đương 11,3%. Hoa Kỳ hiện là điểm đến hàng đầu của FDI trên thế giới, Hà Lan chiếm vị trí thứ hai, trong khi Trung Quốc đã tăng lên vị trí thứ ba.

Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới

IMF nhận định một số rủi ro chính sau có thể ảnh hướng đến triển vọng tăng trưởng toàn cầu:

Thứ nhất, những sai lầm về chính sách. Chính sách tiền tệ chưa đủ thắt chặt hoặc thắt chặt quá mức. Một mặt, chính sách tiền tệ chưa đủ thắt chặt thì sẽ là nguy cơ khiến lạm phát kéo dài, thúc đẩy quan điểm tăng lãi suất, tạo áp lực chi phí đáng kể đối với hoạt động sản xuất và việc làm. Mặt khác, thắt chặt quá mức có nguy cơ nhấn chìm nhiều nền kinh tế vào suy thoái kéo dài.

Thứ hai, sự khác biệt trong các chính sách kinh tế có thể tiếp tục góp phần làm tăng sức mạnh của đồng đô la Mỹ. Quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ ở Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro có thể tiếp tục khác nhau nếu lạm phát kéo dài lâu hơn và việc thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ khó thực hiện ở khu vực đồng Euro. Năm 2022, đồng đô la đã tăng giá hơn 10% so với đồng Nhân dân tệ, khoảng 15% so với đồng Euro, 20% so với đồng bảng Anh và 25% so với đồng Yên. Do việc định giá đồng đô la chiếm ưu thế trong thương mại quốc tế, các biến động về định giá tiền tệ có thể làm gia tăng căng thẳng xuyên biên giới về khả năng cạnh tranh; gây ra lạm phát ở nhiều nền kinh tế và khiến một số quốc gia thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa để ngăn chặn đồng tiền mất giá quá mức, gây tác động tiêu cực đến tăng trưởng.

Thứ ba, các tác nhân gây lạm phát tồn tại lâu hơn. Lạm phát dự kiến sẽ hạ nhiệt vào năm 2023, tuy nhiên tốc độ giảm lạm phát ở các nền kinh tế phát triển nhanh hơn so với ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Trong khi đó, một số yếu tố có thể khiến việc kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn hơn như những cú sốc về giá năng lượng và lương thực, xung đột ở U-crai-na và khả năng bùng phát các cuộc xung đột địa chính trị khác.

Thứ tư, tình trạng nợ lan rộng ở các quốc gia đang phát triển và thị trường mới nổi dễ bị tổn thương. Xung đột ở U-crai-na đã làm gia tăng chênh lệch nợ công đối với một số nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi trong bối cảnh nợ kỷ lục do đại dịch gây ra. Nếu lạm phát vẫn ở mức cao, việc thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa ở các nền kinh tế phát triển có thể gây thêm áp lực lên chi phí đi vay đối với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.

Thứ năm, sự bùng phát trở lại của những quan ngại về y tế toàn cầu. Mặc dù các biến thể vi-rút corona mới nhất ít gây tử vong hơn những biến thể trước đó nhưng chúng cũng rất dễ lây lan. Sự phát triển của các biến thể vi-rút corona mạnh hơn và nguy cơ tử vong vẫn tiềm ẩn rủi ro đối với nền kinh tế toàn cầu. Những khu vực có mức độ phơi nhiễm với các biến thể mới cao nhất và những khu vực có tỷ lệ tiêm chủng thấp như châu Phi có nguy cơ chịu hậu quả nặng nề hơn trong các đợt tái bùng phát đại dịch.

Thứ sáu, khủng hoảng bất động sản ở Trung Quốc ngày càng trầm trọng. Những rủi ro tiêu cực đối với phục hồi tăng trưởng của Trung Quốc là do sụt giảm đáng kể trong lĩnh vực bất động sản, vốn là động lực tăng trưởng của nền kinh tế nước này.

Thứ bảy, sự phân mảnh của nền kinh tế thế giới cản trở hợp tác quốc tế. Xung đột ở U-crai-na đã làm rạn nứt quan hệ giữa Nga và nhiều quốc gia khác. Những căng thẳng địa chính trị mới như ở Đông Á và nhiều nơi khác có nguy cơ xảy ra thường xuyên hơn. Những căng thẳng này sẽ làm gián đoạn thương mại và xói mòn các trụ cột của khuôn khổ hợp tác đa phương.

II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ

Theo IMF, tăng trưởng GDP của nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2022 dự báo đạt 1,6%, giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2022. Giảm dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ năm 2022 là do GDP sụt giảm ngoài dự kiến trong Quý II/2022. Thu nhập thực tế giảm tiếp tục ảnh hưởng đến nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời lãi suất cao hơn cũng tác động lớn đến chi tiêu, đặc biệt là chi cho đầu tư nhà ở. IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2023 ở mức 1,0% so với thời điểm tháng 7/2022.

ADB nhận định tăng trưởng GDP của nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2022 dự báo đạt 1,7%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022, sau đó sẽ giảm mạnh xuống còn 0,4% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,6 điểm phần trăm so với thời điểm tháng 9/2022. Dữ liệu mới nhất cho thấy triển vọng đầu tư và tiêu dùng của Hoa Kỳ yếu đi do điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Niềm tin người tiêu dùng đã giảm từ 98,9 điểm trong tháng 10 xuống 96,9 điểm trong tháng 11 cho thấy tăng trưởng tiêu dùng giảm. Tuy nhiên, thu nhập tiếp tục tăng khi thị trường lao động vẫn mạnh mẽ. Tỷ lệ thất nghiệp dao động ở mức 3,5% – 3,7% kể từ tháng 3/2022. Lạm phát của Hoa Kỳ tăng trong năm 2022, ở mức 8,0% chủ yếu do các yếu tố tác động như giá lương thực, năng lượng tăng cao, giá dịch vụ tiếp tục tăng mạnh. Để kiềm chế lạm phát, Fed tiếp tục tăng lãi suất lên 0,75 điểm phần trăm trong tháng 11, đưa lãi suất chính sách về khoảng 3,75% – 4,00%.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế tháng 11/2022 của Tổ chức OECD, tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ dự báo đạt 1,8% năm 2022, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 9/2022. OECD dự báo tăng trưởng kinh tế Hòa Kỳ năm 2023 đạt 0,5%.

Hình 2. Dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2022 và 2023

Nguồn: ADB, IMF, OECD, Fitch Ratings

Nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng trở lại trong nửa cuối năm 2022 như kỳ vọng, theo đó FR dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ năm 2022 đạt 1,9%, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 9/2022. Tuy nhiên, FR dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ năm 2023 chỉ đạt 0,2%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trước đó do tác động của suy thoái kinh tế có thể sẽ diễn ra vào giữa năm 2023.

Theo Trading Economics, chỉ số PMI trong tháng 12/2022 của Hoa Kỳ đạt 44,6 điểm, thấp hơn so với mức 46,4 điểm của tháng 11/2022. Chỉ số này phản ánh mức giảm nhanh nhất của hoạt động kinh doanh trong hơn hai năm qua. Doanh nghiệp mới giảm với tốc độ nhanh hơn trong tháng 12 trong khi các đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm tháng thứ bảy liên tiếp. Niềm tin kinh doanh giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai năm qua do chi phí đi vay cao hơn, lạm phát và suy thoái kinh tế trên diện rộng đã làm giảm sự lạc quan.

Trading Economics[4] dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ Quý IV/2022 tăng 1,2% so với quý trước và tăng 0,9% so với Quý IV/2021.

Theo ADB, nền kinh tế khu vực đồng Euro đã phục hồi một cách bất ngờ trong Quý III/2022 do nhu cầu trong nước tăng mạnh nhưng đã giảm trong Quý IV do sản xuất và dịch vụ yếu đi. Dự báo tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro đạt 3,0% năm 2022, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022, sau đó giảm xuống chỉ còn 0,1% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,6 điểm phần trăm so với thời điểm trước đó. Điều chỉnh tăng cho năm 2022 phản ánh sự phát triển mạnh mẽ trong Quý III. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế khu vực đồng Euro trong những tháng cuối năm 2022 và năm 2023 dự báo gặp phải những thách thức do lạm phát cao, chính sách tiền tệ thắt chặt và kinh tế toàn cầu suy yếu hơn. Dự báo lạm phát khu vực đồng Euro đạt 8,3% năm 2022 và 4,5% năm 2023. Điều này phản ánh áp lực tăng giá ngày càng lớn do tác động của giá năng lượng và thực phẩm tăng vọt. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,75 điểm phần trăm trong tháng 10, báo hiệu chu kỳ thắt chặt tiền tệ bắt đầu. Thiếu hụt nguồn cung năng lượng và chính sách tiền tệ thắt chặt hơn có thể làm trầm trọng thêm các điều kiện tài chính và vấn đề bền vững nợ.

FR nhận định nền kinh tế châu Âu đã kiên cường hơn dự kiến. GDP trong Quý III/2022 tăng 0,2% so với quý trước nhờ mở cửa trở lại lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả phục hồi tiêu dùng và du lịch quốc tế, cũng như khủng hoảng khí đốt tự nhiên được khắc phục với tiến độ tốt hơn mong đợi nhờ làm tốt dự trữ, giảm rủi ro ngắn hạn về phân phối năng lượng và giảm giá bán buôn khí đốt. FR dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro đạt 3,3% năm 2022, điều chỉnh tăng 0,4 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022 và dự báo đạt 0,2% năm 2023.

OECD điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro tăng 0,2 điểm phần trăm, từ mức 3,1% dự báo trong tháng 9/2022 lên mức 3,3% năm 2022 trước khi giảm xuống còn 0,5% năm 2023.

IMF dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro năm 2022 đạt 3,1%, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2022 nhờ kết quả kinh doanh Quý II/2022 tăng trưởng mạnh hơn dự kiến ở hầu hết các nền kinh tế trong khu vực đồng Euro. Tăng trưởng kinh tế năm 2023 của khu vực này dự báo đạt 0,5%, điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2022. Tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro yếu đi trong năm 2023 phản ánh tác động lan tỏa từ xung đột ở U-crai-na, trong đó giảm mạnh ở các nền kinh tế tiếp xúc nhiều nhất với việc cắt giảm nguồn cung khí đốt của Nga, điều kiện tài chính chặt chẽ hơn cùng với việc Ngân hàng Trung ương châu Âu đã kết thúc mua tài sản ròng và nhanh chóng tăng lãi suất chính sách thêm 0,5 điểm phần trăm vào tháng 7 năm 2022 và 0,75 điểm phần trăm vào tháng 9 năm 2022.

Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 12/2022 của khu vực đồng Euro đã tăng lên 48,8 điểm từ mức 47,8 điểm trong tháng 11/2022, vượt qua mức dự báo sơ bộ 48 điểm.

Theo Trading Economics,[5] GDP Quý IV/2022 của khu vực đồng Euro dự báo giảm 0,4% so với Quý III/2022 và tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2022 và 2023

Theo ADB, nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi trong Quý III/2022 bất chấp suy thoái toàn cầu. Kinh tế Nhật Bản dự báo tăng trưởng 1,4%. Xuất khẩu ròng từ Nhật Bản được dự báo sẽ phục hồi vào cuối năm 2023 khi đồng Yên yếu thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và du lịch trong nước. Ngoài ra, tiết kiệm cao, tăng trưởng tiền lương vừa phải và tiêu dùng hộ gia đình cũng giúp giữ vững đà tăng trưởng mặc dù lạm phát gia tăng. Mặc dù vậy, ADB vẫn hạ dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Nhật Bản xuống còn 1,3%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022 vì giá đầu vào cao hơn sẽ giảm tác động của các chương trình chi tiêu hiện tại của chính phủ đi cùng với việc lãi suất dài hạn tăng sẽ làm giảm hình thành vốn cố định và đầu tư nhà ở.

FR dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản năm 2022 đạt 1,4% và giảm xuống còn 1,1% năm 2023. IMF nhận định tăng trưởng kinh tế Nhật Bản đạt 1,7% trong năm 2022 và 1,6% năm 2023.

OECD giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Nhật Bản năm 2022 ở mức 1,6% so với thời điểm tháng 9/2022 và điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 lên 0,4 điểm phần trăm, đạt 1,8%.

Chỉ số PMI tổng hợp tháng 12/2022 của Nhật Bản tăng lên 50,0 điểm, cao hơn 1,1 điểm so với mức 48,9 điểm trong tháng 11/2022. Đây là tháng chứng kiến sự chênh lệch lớn giữa ngành chế biến chế tạo và dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ được cho là tiếp tục hưởng lợi từ sự gia tăng hoạt động du lịch kể từ khi triển khai Chương trình giảm giá du lịch quốc gia vào tháng 10 trong khi các công ty thuộc lĩnh vực chế biến chế tạo tiếp tục gặp khó khăn khi đối mặt với điều kiện nhu cầu yếu đi và áp lực lạm phát ngày càng nghiêm trọng.

Theo Trading Economics[6], GDP Quý IV/2022 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,1% so với quý trước và tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 4. Dự báo tăng trưởng của Nhật Bản năm 2022 và 2023

IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Trung Quốc xuống 3,2% năm 2022, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2022. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất của nền kinh tế Trung Quốc trong hơn bốn thập kỷ qua, không tính cuộc khủng hoảng Covid-19 đầu tiên vào năm 2020. Hạ tăng trưởng GDP phản ánh tác động của các biện pháp phong tỏa ở nhiều địa phương nhằm theo đuổi chính sách không Covid của Chính phủ Trung Quốc cũng như hậu quả của khủng hoảng thị trường bất động sản ngày càng tồi tệ đã kìm hãm hoạt động kinh tế ở Trung Quốc. IMF dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Trung Quốc đạt 4,4%, điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2022.

Theo ADB, tăng trưởng GDP của nền kinh tế Trung Quốc tăng 3,0% trong 3 quý đầu năm 2022 nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ của đầu tư cơ sở hạ tầng và thương mại bên ngoài trong khi căng thẳng thị trường bất động sản tiếp tục làm suy giảm tăng trưởng. Xuất hiện các ca mắc mới Covid-19 trong tháng 11 đã khiến Chính phủ Trung Quốc kích hoạt áp dụng các biện pháp hạn chế mới, một lần nữa kéo lùi sự phục hồi của nhu cầu hộ gia đình và dịch vụ. Bên cạnh đó, bất động sản vẫn tiếp tục đè nặng lên phục hồi kinh tế do thị trường chưa ổn định và các biện pháp hỗ trợ gần đây cần thời gian để phát huy hiệu quả. Theo đó, ADB điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng của Trung Quốc so với dự báo trong Báo cáo cập nhật hồi tháng 9/2022, xuống còn 3,0% năm 2022 và điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm cho dự báo tăng trưởng GDP năm 2023, đạt 4,3% do tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế lớn chậm lại.

FR giữ nguyên dự báo tăng trưởng năm 2022 của nền kinh tế Trung Quốc ở mức 2,8% nhưng đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng năm 2023 xuống 4,1% từ mức 4,5% trong dự báo tháng 9/2022.

OECD điều chỉnh tăng nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022 cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc lên mức 3,3% năm 2022 và dự báo đạt 4,6% năm 2023, điều chỉnh giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trước đó.

Chỉ số PMI tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc trong tháng 11/2022 đạt 47,0 điểm, giảm 1,5 điểm so với 48,5 điểm trong tháng 10/2022. Đây là mức thấp nhất kể từ tháng 5/2022 khi nền kinh tế Trung Quốc đang ứng phó với làn sóng Covid-19 thứ ba. Sự sụt giảm diễn ra trên diện rộng với hoạt động của nhà máy giảm tháng thứ tư liên tiếp và lĩnh vực dịch vụ giảm mạnh nhất trong sáu tháng qua. Các đơn đặt hàng mới giảm với tốc độ mạnh, nguyên nhân là do doanh số bán hàng trong lĩnh vực dịch vụ giảm mạnh. Trong khi đó, sau khi tăng nhẹ vào tháng 10, việc làm đã giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 2 năm 2020.

Theo Trading Economics[7], GDP Quý IV/2022 của nền kinh tế Trung Quốc tăng 0,8% so với quý trước và tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2021.

Hình 5. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2022 và 2023

Tăng trưởng khu vực Đông Nam Á được ADB[8] điều chỉnh tăng từ mức 5,1% trong báo cáo tháng 9/2022 lên 5,5% dựa trên sự phục hồi mạnh mẽ của tiêu dùng và du lịch tại Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này khó có thể được duy trì trong năm 2023 khi nhu cầu toàn cầu suy yếu. Niềm tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi lạm phát cao và lãi suất tăng, trong khi chi tiêu chính phủ có thể bị cắt giảm do hạn chế tài chính công.

Nhiều ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã tăng lãi suất chính sách để đối phó với việc tăng lãi suất toàn cầu, dòng vốn chảy ra ngoài, đồng tiền mất giá và lạm phát gia tăng cùng với giá lương thực và năng lượng toàn cầu cao hơn. Dự báo lạm phát của Đông Nam Á năm 2022 được điều chỉnh giảm nhẹ do dự báo lạm phát thấp hơn tại In-đô-nê-xi-a và Việt Nam, bù đắp phần nào cho dự báo lạm phát cao hơn tại Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin và Xin-ga-po.

Biến động kinh tế toàn cầu đã không làm giảm tăng trưởng của In-đô-nê-xi-a. GDP của quốc gia này tăng 5,7% trong Quý III/2022, giúp tốc độ tăng trưởng cả năm 2022 đạt 5,4%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng In-đô-nê-xi-a chậm lại còn 4,8% vào năm 2023. Tiêu dùng cá nhân đã tiếp tục tăng trưởng trên mức trước đại dịch và đầu tư đã tăng lên, bù đắp cho sự sụt giảm trong chi tiêu công. Xuất khẩu tăng do nhu cầu đối với hàng hóa thiết yếu tăng mạnh. Xuất khẩu dịch vụ cũng tăng nhanh khi lượng khách du lịch phục hồi. Trong năm 2023, tăng trưởng sẽ chậm lại do giảm xuất khẩu hàng hóa trong bối cảnh các nền kinh tế phát triển giảm tăng trưởng, tiêu dùng tư nhân tăng chậm và thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ.

Ma-lai-xi-a ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ vào năm 2022, đặc biệt tăng trưởng Quý III/2022 đạt mức hai con số là 14,2%. Tăng nhu cầu trong nước đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng khi nền kinh tế tiếp tục bình thường hóa. Các điều kiện thị trường lao động tốt lên đã hỗ trợ cải thiện tỷ lệ thất nghiệp từ 4,3% vào cuối năm 2021 xuống còn 3,7% vào Quý III/2022. Ngoài ra, các biện pháp chính sách như tăng lương tối thiểu và chương trình hỗ trợ tiền mặt đã kích thích tiêu dùng hộ gia đình. Việc nới lỏng các hạn chế về di chuyển và mở cửa lại biên giới vào tháng 4/2022 đã thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng và giải trí, qua đó tiếp thêm sinh lực cho lĩnh vực dịch vụ. Dự báo tăng trưởng năm 2022 của Ma-lai-xi-a đạt 7,3%, và giảm xuống 4,3% trong năm 2023 do ảnh hưởng của điều kiện toàn cầu.

Dự báo tăng trưởng năm 2022 của Phi-li-pin đạt 7,4% nhờ tiêu dùng và đầu tư tư nhân mạnh mẽ cũng như chi tiêu cơ sở hạ tầng công tăng. Việc làm tăng, du lịch phục hồi, sản xuất, bán lẻ, và đầu tư công mở rộng sẽ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng. Dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của quốc gia này đạt 6,0%.

Nền kinh tế Xin-ga-po tăng trưởng 4,1% trong Quý III/2022 nhờ tăng trưởng của các ngành dịch vụ và xây dựng. Lĩnh vực xây dựng đã tăng tốc khi các hạn chế biên giới được nới lỏng đã tạo điều kiện thuận lợi cho dòng lao động nhập cư. Ngược lại, sản xuất chậm lại do giá trị sản xuất điện tử và hóa chất giảm. Chỉ số PMI sản xuất tháng 10/2022 báo hiệu sự thu hẹp và niềm tin kinh doanh tương đối tiêu cực. Lạm phát toàn cầu tăng cao và các điều kiện tài chính thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu đối với các dịch vụ tài chính và làm suy yếu triển vọng tăng trưởng trong lĩnh vực tài chính. Tốc độ chi tiêu của người tiêu dùng có thể sẽ giảm xuống khi lạm phát cao và môi trường kinh tế không chắc chắn làm giảm tâm lý người tiêu dùng. Dự báo tăng trưởng GDP của Xin-ga-po đạt 3,3% trong năm 2022 và 2,3% trong năm 2023.

Kinh tế Thái Lan tăng tốc trong Quý III/2022 chủ yếu nhờ xuất khẩu dịch vụ tăng mạnh với sự quay trở lại của khách du lịch quốc tế. Tiêu dùng tư nhân và đầu tư tư nhân cũng được mở rộng. Xuất khẩu hàng hóa được hỗ trợ bởi nhu cầu mạnh mẽ đối với hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chính: mạch tích hợp, điều hòa không khí, xe bán tải và các loại xe tải khác, phụ tùng thiết bị điện, máy móc, đường và thịt gà. Dự báo GDP năm 2022 của Thái Lan đạt 3,2% và 4,0% cho năm 2023.

Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý IV/2022 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan, Xin-ga-po lần lượt đạt 5,2%, 5,8%, 7,6%, 3,4%, 3,1%. Tăng trưởng Quý IV/2022 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là 1,6%, 2,3%, 1,8%, 1,0% và 0,5%.

Hình 6. Dự báo tăng trưởng năm 2022 của một số quốc gia ASEAN

Dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB)

Trong Báo cáo Cập nhật kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương tháng 10/2022, WB nhận định tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 đạt mức 7,2% và giảm xuống 6,7% trong năm 2023.

Trong Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 12/2022, WB cho rằng cả hai động lực tăng trưởng là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại. Xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng do nhu cầu bên ngoài yếu đi. Tiêu dùng hậu Covid dường như cũng phục hồi chậm lại. Bên cạnh đó, điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới.

Do nhu cầu bên ngoài yếu hơn, tăng trưởng sản xuất công nghiệp giảm còn 5,3% trong tháng 11 (so cùng kỳ năm trước), thấp nhất kể từ tháng 02/2022. Chỉ số PMI trong lĩnh vực chế biến chế tạo lần đầu tiên bị trượt về vùng suy giảm (thấp hơn mốc 50 điểm) kể từ tháng 10 năm 2021. Doanh số bán lẻ vẫn ở mức cao nhưng tốc độ tăng đang giảm dần (17,5% trong tháng 10/2022 so với 20,7% của cùng kỳ năm trước).

Xuất khẩu hàng hóa – lần đầu tiên kể từ tháng 10/2021 giảm 8,4% (so cùng kỳ) do nhu cầu bên ngoài yếu đi và do tác động xuất phát điểm thấp tính từ đợt phục hồi QIV/2021. Mặc dù số đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm (-1,9% so cùng kỳ), nhưng số vốn FDI giải ngân vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng vững vàng (+14,4% so cùng kỳ).

Lạm phát lên đến 4,4% trong tháng 11 (so cùng kỳ) và đạt 4,3% so với tháng trước, trong đó giá lương thực thực phẩm và giá nhà ở là hai yếu tố đóng góp chính. Lạm phát cơ bản tăng từ 4,5% trong tháng 10 (so cùng kỳ) lên 4,8% trong tháng 11/2022 (so cùng kỳ).

Đồng tiền của Việt Nam tăng giá nhẹ trong tháng 11/2022 mặc dù mức tăng giá của tiền đồng vẫn thuộc dạng thấp nhất so với các đồng tiền lớn và đồng tiền của các quốc gia láng giềng.

Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ là điều kiện quan trọng để duy trì ổn định giá cả trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước gia tăng. Chiến lược chi tiêu thận trọng hơn và tập trung vào ưu tiên hơn nhằm đảm bảo đầu tư cho vốn con người, hạ tầng xanh và thích ứng khí hậu sẽ giúp nâng cao khả năng chống chịu và tiềm năng của nền kinh tế.

Dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

IMF dự báo tăng trưởng của nhóm 5 nền kinh tế trong ASEAN gồm In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Việt Nam, Phi-li-pin và Ma-lai-xi-a (ASEAN-5) đạt 5,3% trong năm 2022. Tăng trưởng của nhóm dự kiến ​​chậm lại còn 4,9% vào năm 2023 do nhu cầu yếu hơn ở các đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ.

Theo IMF, Việt Nam đứng đầu ASEAN-5 với tăng trưởng dự báo đạt 7% trong năm 2022, nhưng sẽ giảm xuống còn 6,2% trong năm 2023.

Dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)

Hoạt động mạnh mẽ trong các lĩnh vực đã giúp Việt Nam tăng trưởng 8,8% trong 3 quý đầu năm 2022. Hoạt động kinh tế phục hồi sau khi dỡ bỏ các hạn chế về Covid-19 và đạt được tỷ lệ bao phủ vắc xin trên toàn quốc. Lượng khách du lịch quốc tế đạt 2,4 triệu lượt trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 10/2022. Với những diễn biến này, dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam đạt 7,5%. Trong khi thương mại tiếp tục mở rộng, các dấu hiệu cho thấy nhu cầu toàn cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đang suy yếu. Chỉ số PMI ngành chế biến chế tạo đã giảm từ 50,6 trong tháng 10 xuống 47,4 trong tháng 11 và việc làm đã giảm lần đầu tiên sau 8 tháng. Dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam chỉ đạt 6,3% do các đối tác thương mại lớn suy yếu.

Trading economic dự báo tăng trưởng Quý IV/2022 so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam đạt 8%.

Hình 7. Dự báo tăng trưởng Việt Nam của một số tổ chức quốc tế

Trading economic dự báo tăng trưởng Quý IV/2022 so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam đạt 8%.

[1] Thước đo thương mại hàng hóa, ngày 28/11/2022.

[2] Báo cáo toàn cầu hàng tháng, tháng 11/2022.

[3] Nguồn: https://www.fao.org/worldfoodsituation/foodpricesindex/en/ cập nhật ngày 22/12/2022.

[4] Nguồn: https://tradingeconomics.com/united-states/forecast cập nhật ngày 22/12/2022.

[5] Nguồn: https://tradingeconomics.com/euro-area/forecast cập nhật ngày 22/12/2022.

[6] Nguồn: https://tradingeconomics.com/japan/forecast cập nhật ngày 22/12/2022.

[7] Nguồn: https://tradingeconomics.com/china/forecast cập nhật ngày 22/12/2022.

[8] Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á bổ sung, tháng 12/2022.